NGHIÊN CỨU CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VIÊM THANH QUẢN DO NẤM
Thái Hữu Dũng *, Nguyễn Thị Ngọc Dung
Mở đầu: Viêm thanh quản do nấm là viêm thanh quản đặc hiệu do các vi nấm gây ra, bệnh có khuynh hướng ngày càng tăng trên người giảm sức đề kháng và ngay cả người có sức khoẻ bình thường.
Mục tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng và các xét nghiệm vi nấm cùng với kết quả điều trị với thuốc kháng nấm Itraconazole.
Đối tượng_ Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 31 bệnh nhân được chẩn đoán và định danh nấm bằng kỹ thuật PCR tại BV Tai mũi họng Tp HCM từ tháng 6/2009 đến tháng 6/2010.
Kết quả: Nấm thanh quản gặp ở lứa tuổi lao động 19-50 tuổi (70,8%), nam gặp nhiều hơn nữ (70,8%/ 28,9%), nghề có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất nông dân chiếm 38,7%. Các yếu tố thuận lợi : hút thuốc chiếm tỷ lệ cao 48,4%, bệnh lý dạ dày (GERD)32,3%. Các yếu tố có liên quan rõ rệt đến bệnh là sử dụng kháng sinh 96,8%, corticoid 54,8%. Tất cả các bệnh nhân đều bị khàn tiếng kéo dài (100%). Có thể kèm theo các triệu chứng ho (100%) và ngứa họng (58,1%). Nội soi thanh quản thấy giả mạc ở dây thanh 100% là triệu chứng có giá trị nhất. Giá trị của xét nghiệm vi nấm: Soi trực tiếp cho kết quả nhanh, nhưng tỷ lệ dương tính chưa cao (54,8%).
Giải phẫu bệnh cho chẩn đoán xác định chỉ đạt (22,6%). Vì vậy phải kết hợp với các xét nghiệm vi nấm khác. Kỹ thuật PCR và giải trình tự đã định danh được 2 giống nấm gây bệnh là Aspergillus (93,5 %), Candida (6,5%).
Điều trị toàn thân đóng vai trò chủ yếu: dùng Itraconazol 200mg/ngày, thời gian trung bình 5 tuần đạt kết quả tốt 90,3%, kết quả khá đạt 9,7%.
Kết luận: Trong 2 năm từ 1/6/2008- 31/6/2010 chúng tôi ghi nhận có 31 trường hợp được chẩn đoán và định danh nấm bằng ứng dụng kỹ thuật PCR và giải trình tự : đa số là Aspergillus 93,5% và 6,5% là Candida.
Tất cả các bệnh nhân đều bị khàn tiếng kéo dài (100%). Có thể kèm theo các triệu chứng ho (100%) và ngứa họng (58,1%), đặc biệt là điều trị kháng sinh và kháng viêm không đỡ.
- Nội soi TQ thấy giả mạc ở dây thanh 100% (2 bên dây thanh 80,6%, 1 bên dây thanh 19,4%) là triệu chứng có giá trị nhất gợi ý cho chẩn đoán. chúng tôi không gặp ở các vị trí khác của TQ.
Giá trị của xét nghiệm vi nấm
- Soi trực tiếp cho kết quả nhanh, nhưng tỷ lệ dương tính chưa cao (54,8%).
- Giải phẫu bệnh vừa có giá trị chẩn đoán xác định bệnh, vừa có giá trị chẩn đoán phân biệt với
các bệnh khác của thanh quản, tuy nhiên tỷ lệ cho chẩn đoán xác định chỉ đạt (22,6%).
-Kỹ thuật PCR và giải trình tự được coi là xét nghiệm cho chẩn đoán và định danh nấm gây bệnh. Đã định danh được 2 giống nấm gây bệnh ở TQ là Aspergillus (93,5%), Candida (6,5%), làm cơ sở cho việc lựa chọn thuốc điều trị. Vì vậy, để chẩn đoán TQ do nấm nên kết hợp làm cả ba xét nghiệm soi trực tiếp, giải phẫu bệnhvà PCR để chẩn đoán xác định, chẩn đoán phân biệt và định danh nấm gây bệnh.
Điều trị VTQ do nấm: Kết hợp điều trị tại chỗ và điều trị toàn thân.
-Bóc tách gỡ bỏ giả mạc ở 100% số bệnh nhân để loại trừ nhanh tác nhân gây bệnh nhằm giảm liều thuốc, thời gian điều trị và phục hồi nhanh khả năng phát âm.
- Điều trị toàn thân đóng vai trò chủ yếu: dùng Itraconazol 200mg/ngày, thời gian trung bình 5-6 tuần đạt kết quả tốt 90,3%, kết quả khá đạt 9,7%, và 0% kết quả điều trị xấu